P-47 Thunderbolt được chế tạo bởi công ty Republic Aviation và được xếp vào loại máy bay ném bom chiến đấu.
Đã có thời điểm trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ không có đầy đủ thiết bị quân sự để đối đầu với các cường quốc trục. Khi Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng, chiếc A6M Zeros của họ nhanh nhẹn và mạnh mẽ hơn nhiều so với máy bay chiến đấu P-40 của Hoa Kỳ. P-40 là một máy bay kiên cố mặc dù có lớp giáp tốt, nhưng nó cũng không phải là loại tốt nhất để chống lại các máy bay tiên tiến hơn của Đức như Focke-Wulf 190. Tuy nhiên, ngay sau đó, Mỹ bắt đầu bắt kịp các máy bay như P- 51 Mustang, nhưng một chiếc máy bay đáng kinh ngạc khác của nó là Republic P-47 Thunderbolt.
P-47 Thunderbolt được chế tạo bởi công ty Republic Aviation và được xếp vào loại máy bay ném bom chiến đấu, với trọng lượng lên tới 8 tấn được trang bị đầy đủ vũ khí, nó là một trong những máy bay chiến đấu nặng nhất trong cuộc chiến. Nó phục vụ tốt trong vai trò máy bay chiến đấu hộ tống tầm ngắn đến tầm trung cho máy bay ném bom, nhưng có lẽ nó hoạt động đáng sợ hơn, với vai trò máy bay chiến đấu tấn công mặt đất ở European Theatre. Máy bay này sẽ vẫn được phục vụ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, và nó rất nhanh chóng đã trở thành một trong những máy bay chiến đấu chính của Lực lượng Không quân Lục quân Hoa Kỳ trong cuộc xung đột.
Sự phát triển của P-47
P-47 được Alexander Kartveli thiết kế để thay thế cho chiếc Seversky P-35 cũ kỹ và kém chất lượng. Republic P-43 Lancer có hiệu lực ngay từ đầu chương trình P-47, với một số máy bay chiến đấu trong số này phục vụ cùng với Trung Quốc thông qua Nhóm Tình nguyện viên Hoa Kỳ của Claire Chennault, Flying Tigers. Cuối cùng, chương trình P-47 chuyên dụng ra đời, ban đầu được đặt tên là XP-47 khi nó vẫn đang trong giai đoạn phát triển và thử nghiệm. Chiếc máy bay này có phần thay đổi so với các mẫu đường hầm gió ban đầu, nhưng chiếc đầu tiên bay vào tháng 5 năm 1941 và chiếc đầu tiên sau đó được chuyển giao cho Không quân Hoa Kỳ vào tháng 12 năm 1941.
Những gì người Mỹ đã phát triển là một trong những máy bay chiến đấu đáng chú ý và tàn bạo nhất trong cả cuộc chiến. Trong đặc điểm kỹ thuật P-47D-40, Thunderbolt được trang bị động cơ hướng tâm làm mát bằng không khí Pratt & Whitney R-2800-59 18 xi-lanh, sản sinh công suất khá đáng kinh ngạc 2.000 mã lực. Thunderbolt có tốc độ tối đa 426 dặm/giờ và độ cao tối đa khoảng 42.000 ft, với hiệu suất độ cao tuyệt vời. Tầm hoạt động của nó khoảng 1.030 dặm có nghĩa là nó rất phù hợp với vai trò hộ tống máy bay ném bom, và sẽ không mất nhiều thời gian trước khi sự cứng cáp và to lớn của nó được thể hiện trong phục vụ chiến đấu.
Máy bay P-47 trong biên chế hoạt động
Những chiếc P-47 đã sớm được đưa đến các sân bay ở Anh vào năm 1942 để sử dụng trong các hoạt động chiến đấu. Được đặt biệt danh là “Jug”, chiếc máy bay này đã sớm thể hiện sự dẻo dai của nó. Heinz Bar nổi tiếng của Không quân Đức cho biết P-47 “có thể hấp thụ một lượng chì đáng kinh ngạc từ việc bắn vào nó và phải được xử lý rất cẩn thận”. Nó có thể không nhanh nhẹn như P-51 Mustang, nhưng nó có những điểm mạnh lớn. Khả năng hiển thị tuyệt vời từ buồng lái, độ dẻo dai và trang bị 8 khẩu súng máy cỡ nòng .50 có nghĩa là các phi công chiến đấu Đức thực sự đã làm, như Bar nói, phải xử lý máy bay cẩn thận. 56th Fighter Group của 8th Air Force sẽ tiếp tục bắn rơi máy bay 677 bằng Thunderbolt.
Tuy nhiên, Thunderbolt sớm có một công dụng khác như một máy bay chiến đấu-ném bom. Thực tế là nó có thể chịu được nhiều hỏa lực của kẻ thù nên nó cũng hoàn hảo như một máy bay tấn công mặt đất. Máy bay P-47D có thể sớm được trang bị bom 1.000 lbs cũng như rocket M8 4,5 inch để tấn công các căn cứ, sân bay, xe tăng của đối phương và mọi thứ khác ở giữa. Trong suốt thời gian đó, Thunderbolt vẫn được sử dụng như một máy bay chiến đấu hộ tống, và dung tích nhiên liệu tăng lên đồng nghĩa với việc nó có thể bay tới nước Đức cùng các máy bay ném bom và không bỏ rơi chúng giữa chừng để tới mục tiêu.
Cách sử dụng đáng chú ý trong chiến tranh
Những chiếc P-47 có lẽ trở nên nổi tiếng nhất với các nhiệm vụ tấn công mặt đất trong và sau D-Day, nơi chúng sẽ tiếp tục tiêu diệt khoảng 6.000 xe bọc thép và 68.000 xe tải cho đến trước VE-Day (ngày chiến thắng ở Châu Âu). Chiến dịch Cobra, một cuộc tấn công của Hoa Kỳ ngay sau D-Day, đã chứng kiến Thunderbolts của Tập đoàn tiêm kích 405 tiêu diệt một loạt thiết giáp của Đức gồm 122 xe tăng. Không quân Hoàng gia Anh cũng sử dụng Thunderbolt để chống lại quân Nhật ở Miến Điện trong vai trò tấn công mặt đất, cũng như được sử dụng làm máy bay chiến đấu hộ tống cho máy bay ném bom RAF B-24 Liberator ở Rangoon. Trở lại châu Âu, sẽ trở thành một trong những điểm tham quan đáng sợ nhất của Không quân Đức và quân đội Đức khi cuộc chiến đi vào giai đoạn cuối.
P-47 được xếp hạng trong số các máy bay chiến đấu trong Thế chiến 2
P-47 Thunderbolt được xếp hạng cao như một máy bay chiến đấu và máy bay cường kích trong Thế chiến 2. Nó có thể không phải là máy bay chiến đấu nhanh nhẹn nhất trong chiến tranh, nhưng nó đã hoàn thành lời hứa thiết kế và là một máy bay cực kỳ linh hoạt và hiệu quả. Thực tế là nó có thể chịu được nhiều hỏa lực của đối phương có nghĩa là các phi công Đức đã thực sự đảm bảo mọi phát bắn được tính để hạ được một quả Thunderbolt. Một số chiếc máy bay đáng chú ý này vẫn đang bay cho đến ngày nay.