Ford Model T là một trong những chiếc xe quan trọng nhất mọi thời đại, nếu không muốn nói là quan trọng nhất. Nó đã phổ biến việc sử dụng dây chuyền lắp ráp như một kỹ thuật sản xuất và là chiếc ô tô “thế giới” đầu tiên (chiếc ô tô được thiết kế để phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng ở mọi nơi trên thế giới) thực sự tồn tại.
Ford Model T chưa bao giờ chính xác là một cỗ máy tốc độ (nó cũng chưa từng được thiết kế để trở thành như vậy). Tốc độ tối đa của Model T là 42 dặm / giờ (68 km / h), phù hợp với thời điểm đó nhưng khác xa so với khả năng của những chiếc xe nhanh nhất thời kỳ đó.
Cấu trúc của Ford Model T
Hãy nói về công nghệ được sử dụng trong Model T đã giúp nó đạt được tốc độ như hiện tại. Chúng ta sẽ đề cập đến hai thành phần chính ở đây: động cơ/hệ thống nhiên liệu và hộp số.
Động cơ và hệ thống nhiên liệu
Về động cơ, Model T sử dụng động cơ 4 xi-lanh thẳng hàng 2,9 lít (177 inch khối) với tỷ số nén 3,98:1 (thấp hơn đáng kể so với những gì bạn tìm thấy ở hầu hết các động cơ hiện đại). Động cơ này tạo ra khoảng 20 mã lực và tiêu hao nhiên liệu từ 13-21 mpg.
Mặc dù đây không phải là động cơ mạnh nhất vào thời điểm đó, nhưng động cơ của Model T rất đáng chú ý vì đáng tin cậy và dễ vận hành. Khả năng tiết kiệm nhiên liệu của nó cũng được đánh giá là khá tốt so với nhiều mẫu xe khác cùng thời.
Một khía cạnh thú vị của động cơ Model T là khả năng chạy bằng nhiều loại nhiên liệu. Mặc dù động cơ được thiết kế chủ yếu để đốt xăng, nhưng thiết kế đơn giản, bền bỉ của nó cho phép nó sử dụng nhiều thứ khác làm nguồn nhiên liệu, bao gồm etanol và benzen. Nó thậm chí có thể chạy bằng dầu hỏa với một vài điều chỉnh đơn giản.
Hệ thống nhiên liệu được sử dụng trong Model T cũng là một điều thú vị. Model T có bình xăng 10 gallon gắn vào khung bên dưới ghế trước. Không giống như những chiếc xe hiện đại sử dụng máy bơm nhiên liệu để chuyển nhiên liệu từ bình xăng sang động cơ, Model T sử dụng hệ thống cấp liệu bằng trọng lực.
Về cơ bản, các đường dẫn nhiên liệu và bộ chế hòa khí được đặt dưới điểm thấp nhất của bình xăng, cho phép nhiên liệu chảy từ bình xuống hệ thống nhiên liệu. Mặc dù hệ thống này đơn giản và rẻ tiền để chế tạo, nhưng nó đã gây ra một số vấn đề.
Đáng chú ý nhất, có một thực tế là thiết kế của hệ thống khiến việc lái xe lên một ngọn đồi dốc gần như không thể. Nếu bạn không có đủ nhiên liệu trong bình, việc đi lên một ngọn đồi dốc về phía trước sẽ khiến phần nhiên liệu còn lại di chuyển về phía sau bình và cách xa nơi bình kết nối với các đường dẫn nhiên liệu.
Nói cách khác, đi lên dốc quá dốc mà không có đủ nhiên liệu trong bình sẽ khiến động cơ bị thiếu nhiên liệu. Tuy nhiên, những người lái xe nhận ra rằng họ có thể khắc phục vấn đề này bằng cách lái xe ngược chiều lên đồi.
Cuối cùng, Ford đã thiết kế lại Model T và thay đổi vị trí của bình xăng, di chuyển nó ra sau bảng điều khiển để nó tiến xa hơn và cao hơn so với vị trí ban đầu, điều này giúp ích cho việc nạp trọng lực. Việc nhiều chủ sở hữu Model T lắp đặt máy bơm nhiên liệu hậu mãi để giải quyết vấn đề này cũng khá phổ biến.
Hộp số
Hộp số được sử dụng trong Model T khác biệt đáng kể so với bất kỳ hộp số tay hiện đại nào mà bạn có thể tìm thấy ngày nay. Ban đầu nó được tiếp thị là hộp số “ba tốc độ”, mặc dù về mặt kỹ thuật, nó chỉ có hai tốc độ; tốc độ thứ ba thực sự là số lùi.
Model T có 3 bàn đạp, giống như trên những chiếc ô tô số sàn ngày nay, ngoại trừ chức năng của nó. Cả 3 bàn đạp đều nằm bên trái chỗ để chân của người lái và chúng không phải là ly hợp-phanh-ga như bạn thấy.
Thay vào đó, những bàn đạp này điều khiển ly hợp, phanh và số lùi. Để thực hiện số lùi trên Model T, bạn sẽ đặt hộp số ở vị trí số 0 rồi dùng chân nhấn vào bàn đạp số lùi. Model T không có bàn đạp ga; thay vào đó, bạn sẽ điều khiển ga bằng một cần gạt trên vô lăng. Ngoài ra, Model T không có phanh thông thường mà phanh hộp số.
So sánh Model T với những chiếc xe cùng thời
Tốc độ tối đa 42 dặm / giờ nghe có vẻ không nhiều so với tiêu chuẩn ngày nay, nhưng vào đầu thế kỷ 20, không có nhiều ô tô tương tự khác trên đường để so sánh. Tuy nhiên, đã có những chiếc xe khác vào thời điểm đó và nhiều chiếc trong số chúng nhanh hơn đáng kể.
Ví dụ, vào những năm 1910, chiếc ô tô nhanh nhất bạn có thể mua là Austro-Daimler Prinz Heinrich. Chiếc xe này được trang bị động cơ 5,7 lít 4 xi-lanh thẳng hàng, công suất 60 mã lực và có thể đưa Prinz Heinrich đạt vận tốc tối đa 85 dặm/giờ (136 km/giờ).
Và vào năm 1928, ngay khi Model T đang hoàn thành quá trình sản xuất, bạn đã có sự ra mắt của Duesenberg Model J. Con quái thú của cỗ máy này đi kèm với động cơ 8 xi-lanh thẳng hàng 6,9 lít đã tạo ra một chiếc xe khổng lồ (vào thời điểm đó) 265 mã lực, cho phép nó đạt tốc độ tối đa 119 dặm/giờ (192 km/giờ). Các phiên bản sau của Model J đã thêm bộ siêu nạp để có thêm sức mạnh.
Trong trường hợp đó, tại sao mọi người lại mua Model T khi những chiếc xe khác tồn tại? Chà, những chiếc xe khác đã đánh bại Model T về tốc độ, nhưng không phải về giá cả. Ở mức rẻ nhất, Model T chỉ có giá 260 đô la, nhưng những chiếc xe như Model J lại đắt một cách vô lý vào thời điểm đó.
Vào năm 1928, một khung xe Duesenberg mới có giá khoảng 8.500 đô la (gần 140.000 đô la khi được điều chỉnh theo lạm phát). Duesenberg thậm chí không cung cấp cho bạn một thân xe hoặc nội thất cho việc trả tiền của bạn; để làm được điều đó, bạn phải mang xe của mình đến một hãng độ xe và nhận một thân xe tùy chỉnh với một khoản chi phí bổ sung.
Vì vậy, mặc dù chắc chắn có những chiếc xe nhanh hơn và sang trọng hơn có sẵn cùng lúc với Model T, nhưng hầu như không có chiếc xe nào khác thậm chí có giá phải chăng từ xa đối với những người thuộc tầng lớp lao động trung bình của bạn.